Anh hùng – Tapchisacdep.com https://tapchisacdep.com Tạp chí sắc đẹp & phụ nữ Việt Nam Sun, 24 Aug 2025 11:28:05 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/tapchisacdep/2025/08/tapchisacdep.svg Anh hùng – Tapchisacdep.com https://tapchisacdep.com 32 32 Mẹ Việt Nam anh hùng với cuộc đời đầy tri thức và kinh nghiệm cách mạng https://tapchisacdep.com/me-viet-nam-anh-hung-voi-cuoc-doi-day-tri-thuc-va-kinh-nghiem-cach-mang/ Sun, 24 Aug 2025 11:28:03 +0000 https://tapchisacdep.com/me-viet-nam-anh-hung-voi-cuoc-doi-day-tri-thuc-va-kinh-nghiem-cach-mang/

Chúng tôi đến thăm mẹ Việt Nam Anh hùng Lê Thị Tuyết, 93 tuổi, tại ấp Ba Tục, xã Trà Cú, vào một ngày cuối tuần. Dù đã cao tuổi, mẹ vẫn giữ được sự minh mẫn và ấm áp, tiếp đón chúng tôi với nụ cười thân thiện. Mỗi lần gặp gỡ, mẹ thường bồi hồi nhớ về những tháng năm khó khăn trong thời kháng chiến, sự hy sinh của chồng và con trai, nhưng cũng không quên bày tỏ niềm vui trước sự phát triển của địa phương và cuộc sống ấm no của người dân.

Sinh năm 1933 tại xã Thanh Sơn, huyện Trà Cú, mẹ Lê Thị Tuyết đã lập gia đình với đồng chí Nguyễn Văn Nguy vào năm 1952. Chồng mẹ là Thượng sĩ Tiểu đoàn 307, và mẹ cũng tích cực tham gia hoạt động tại hội phụ nữ xã. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, mẹ đã dũng cảm và kiên cường, tham gia vận động thành lập lực lượng vũ trang và hoạt động cho đến năm 1975. Chồng và con trai lớn của mẹ đã anh dũng hy sinh vì Tổ quốc, và mẹ được Chủ tịch nước tặng danh hiệu cao quý ‘Bà mẹ Việt Nam anh hùng’. Mẹ cũng được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huy chương Vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ, và Huy hiệu 40 năm tuổi Đảng.

Nhớ lại quá trình tham gia cách mạng, mẹ kể về việc chồng mẹ tham gia cách mạng năm 1946 và định hướng cho mẹ và cha mẹ tham gia cách mạng. Mẹ đã tham gia hoạt động phong trào phụ nữ, hoạt động tải thương, hậu cần. Khi chồng mẹ hy sinh vào ngày 18/6/1964, mẹ đã biến đau thương thành sức mạnh để tiếp tục hoạt động và chăm sóc các con. Con trai lớn của mẹ, Nguyễn Văn Bạch, cũng hy sinh vào ngày 16/6/1971 khi đang chiến đấu. Mẹ càng quyết tâm thực hiện các nhiệm vụ và đóng góp cho cách mạng đến ngày toàn thắng.

Mẹ Lê Thị Tuyết cũng đã vận động phụ nữ tại địa phương và thực hiện nhiều hoạt động để hỗ trợ bộ đội đánh giặc. Những đóng góp và sự hy sinh của mẹ góp phần không nhỏ làm nên những chiến thắng vẻ vang và giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Hiện tại, dù đã 93 tuổi, mẹ vẫn duy trì xem chương trình thời sự trên đài truyền hình và theo dõi tình hình thời sự diễn ra. Mẹ luôn thể hiện nhiệt huyết với cách mạng và nhắc nhở con cháu tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng của gia đình.

Mẹ Lê Thị Tuyết là biểu tượng của sự kiên cường, dũng cảm và lòng yêu nước. Câu chuyện của mẹ là nguồn cảm hứng cho nhiều thế hệ, nhắc nhở về truyền thống cách mạng và sự hy sinh của những người đã góp phần xây dựng quê hương và đất nước.

]]>
Tưởng nhớ những hồn thiêng守卫祖国 – Vinh quang các anh hùng liệt sĩ https://tapchisacdep.com/tuong-nho-nhung-hon-thieng%e5%ae%88%e5%8d%ab%e7%a5%96%e5%9b%bd-vinh-quang-cac-anh-hung-liet-si/ Thu, 14 Aug 2025 13:13:19 +0000 https://tapchisacdep.com/tuong-nho-nhung-hon-thieng%e5%ae%88%e5%8d%ab%e7%a5%96%e5%9b%bd-vinh-quang-cac-anh-hung-liet-si/

Ngày 17/2/1979 – một ngày bi hùng trong lịch sử bảo vệ biên giới của Việt Nam. Trên khắp các tuyến biên giới, từ miền núi cao phía Bắc đến rẻo đất cuối trời phương Nam, hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ ưu tú của Công an nhân dân vũ trang (CANDVT) – Bộ đội Biên phòng (BĐBP) đã sẵn sàng xả thân cho Tổ quốc, dũng cảm chiến đấu, anh dũng hy sinh, hoặc mang thương tật suốt đời. Máu đào của các anh hùng, liệt sĩ đã tô thắm lá cờ cách mạng vẻ vang, để đất nước ta nở hoa độc lập, kết trái tự do.

Ông Giàng Cồ Sén trò chuyện với cán bộ Đồn Biên phòng Pha Long. Ảnh: Đăng Bảy
Ông Giàng Cồ Sén trò chuyện với cán bộ Đồn Biên phòng Pha Long. Ảnh: Đăng Bảy

Trong gần hai năm thực hiện cuốn sách ‘Những tượng đài bất tử trên biên giới’, tôi may mắn có dịp đến dâng hương tại tất cả các bia tưởng niệm liệt sĩ BĐBP trên cả nước. Mỗi nơi đi qua, mỗi tên người được khắc lại là một phần lịch sử máu lửa của dân tộc mà chúng ta không được lãng quên. Tại Đồn Biên phòng Phú Mỹ – Đồn CANDVT Phú Mỹ trước đây (thuộc tỉnh An Giang), đơn vị duy nhất trong toàn lực lượng có 100% CB, CS hy sinh, tôi đã đứng rất lâu như để gửi đến các anh lời tri ân từ thế hệ hôm nay…

Ngày 17/5/1978, sau nhiều đợt tấn công thất bại, quân Pol Pot điều 4 tiểu đoàn đánh thẳng vào Đồn CANDVT Phú Mỹ. Khi đã bắn đến viên đạn cuối cùng, CB, CS của đơn vị vẫn dũng cảm giương lê đánh giáp lá cà chứ quyết không hạ súng đầu hàng, không để kẻ địch bắt sống. Điều khiến tôi xúc động nhất là ở đâu cũng có nhiều người dân, các già làng, trưởng bản, CB, CS Biên phòng thuộc lòng từng cái tên trên bia mộ. Họ nhớ rõ từng trận đánh, từng chi tiết và gìn giữ những mẩu kỷ vật của các thế hệ đi trước như giữ một phần máu thịt của chính mình.

Hiện nay, trên cả nước có 136 đồn Biên phòng có CB, CS hy sinh qua các thời kỳ, với hơn 1.370 liệt sĩ. Trong đó, hơn 50 đồn và đơn vị Biên phòng đã xây dựng bia, nhà bia, đài tưởng niệm để mãi khắc ghi sự hy sinh, cống hiến to lớn của các anh hùng liệt sĩ – những người đã hiến dâng trọn đời mình cho từng tấc đất biên cương của Tổ quốc.

]]>
Côn Đảo – Nơi lưu giữ bi hùng về lòng yêu nước https://tapchisacdep.com/con-dao-noi-luu-giu-bi-hung-ve-long-yeu-nuoc/ Wed, 13 Aug 2025 09:28:00 +0000 https://tapchisacdep.com/con-dao-noi-luu-giu-bi-hung-ve-long-yeu-nuoc/

Côn Đảo – Một Địa Danh Lịch Sử Thiêng Liêng

Là một nhà báo, tôi đã có cơ hội đến thăm nhiều địa danh lịch sử, nhưng Côn Đảo luôn là một nơi đặc biệt. Nơi đây không cần lời giới thiệu hay sắc màu tô điểm để trở nên linh thiêng. Chỉ cần một bước chân đặt xuống, một làn gió biển mặn mòi thoảng qua, là đã thấy lòng trùng xuống, tim nhói lên một niềm kính phục và biết ơn vô hạn.

Côn Đảo là nơi từng tấc đất, từng nắm cát, từng con sóng cũng mang trong mình một câu chuyện bi hùng về lòng yêu nước, sự hy sinh và niềm tin son sắt vào ngày mai hòa bình. Ngày 26/7, tôi có cơ hội đặt chân lên đặc khu thiêng liêng này để tham dự Lễ tri ân các anh hùng, liệt sĩ tại Côn Đảo.

Cùng hàng trăm đại biểu, người dân, cựu chiến binh và những người con xa xứ trở về, chúng tôi đã dâng nén hương thành kính tại Nghĩa trang Hàng Keo, Nghĩa trang Hàng Dương, những nơi được xem là “bàn thờ Tổ quốc” giữa biển khơi. Khó có thể diễn tả được cảm xúc của tôi lúc đứng lặng lẽ nghiêng mình trước những ngôi mộ – phần lớn là chưa biết tên – những người con ưu tú của đất mẹ đã ngã xuống trong bóng tối của ngục tù, trong nỗi đau không tên, để góp phần cho ánh sáng tự do được thắp lên cho hôm nay.

Những nén nhang, ngọn nến bập bùng trong gió như là hơi thở của quá khứ vọng về, nhắc nhở chúng ta rằng, để có được những ngày bình yên này, máu xương đã từng đổ xuống biết bao nhiêu. Khi ánh chiều buông xuống, tôi cảm nhận như đất trời lặng im để lắng nghe lời tri ân, để chứng kiến sự tiếp nối thiêng liêng giữa các thế hệ.

Những giọt nước mắt âm thầm rơi xuống không chỉ là của nỗi đau, mà còn là của lòng biết ơn và niềm tự hào vô hạn. Bởi vì trong nơi tưởng như là chốn tận cùng ấy, lại chính là điểm khởi đầu của những điều cao cả nhất – tình yêu đất nước, lòng hy sinh vô điều kiện, và khát vọng độc lập, tự do.

Đêm xuống, tôi tham dự chương trình nghệ thuật “Côn Đảo – Bản hùng ca bất tử” – một khúc tráng ca không chỉ kể về quá khứ mà còn lay động trái tim từng người bằng sức mạnh của nghệ thuật, của âm nhạc, của những ký ức chưa bao giờ nguôi ngoai trong tâm thức dân tộc. Dưới vòm trời đầy sao, tiếng nhạc vang lên như tiếng vọng của những linh hồn anh hùng đang trở về.

Tôi đặc biệt xúc động với ca khúc “Viết tiếp câu chuyện hòa bình”, một bài hát không quá ồn ào, nhưng từng câu từng chữ lại đào sâu vào ký ức, gọi dậy bao hình ảnh hào hùng: “Cha ông ta ngày xưa ngã xuống, để cho đời ta ngày sau đổi lấy hòa bình. Giữa khói binh ai cũng nguyện lòng hy sinh… Để cho đất nước yên vui từ đó. Để cho đỏ thắm màu cờ tự do. Để những tiếng cười vang khắp nơi từ ngày chiến thắng”.

Tôi đã nghe nhiều bản hùng ca về chiến tranh, về sự hy sinh và hòa bình. Nhưng lần này, giữa không gian thiêng liêng Côn Đảo, nơi hàng vạn chiến sĩ cách mạng từng bị giam cầm, tra tấn và hy sinh, những câu hát ấy bỗng mang một chiều sâu đặc biệt. Đó không còn là ca từ – mà là lời nhắn gửi từ quá khứ, là nhịp đập của lịch sử vọng về hiện tại.

Côn Đảo không chỉ là một địa danh. Côn Đảo là ký ức, là biểu tượng, là chứng nhân. Côn Đảo là nơi lưu giữ những nỗi đau tận cùng nhưng cũng là nơi phát ra ánh sáng rực rỡ nhất của tinh thần bất khuất, nơi “tử vì sinh, mất vì còn, chịu đựng để chiến thắng”.

Tôi xúc động khi nghĩ về những người tù không án – những người dám đứng lên vì lý tưởng cao cả dù biết rằng con đường phía trước là bóng tối nhà tù, là roi vọt, là đòn tra tấn, và có thể là cái chết không tên, không tuổi. Tôi nghĩ về những nữ chiến sĩ kiên cường nơi “chuồng cọp” Côn Đảo, nơi họ vẫn giữ trọn khí tiết, vẫn hát giữa đau thương, vẫn tin vào ngày mai.

Và tôi cũng nghĩ đến những người trẻ hôm nay – thế hệ sinh ra trong hòa bình, lớn lên trong nhịp sống sôi động và tự do. Liệu chúng ta đã hiểu hết giá trị của hòa bình, của độc lập? Liệu chúng ta có đang viết tiếp câu chuyện của cha ông bằng hành động thiết thực, bằng ý chí vươn lên, bằng khát vọng xây dựng đất nước hùng cường?

Đi giữa đêm Côn Đảo, tôi thấy những ngọn nến nhỏ được đặt trước mỗi phần mộ. Ánh nến lung linh soi rọi khuôn mặt trầm ngâm của những người đến viếng. Mỗi ngọn nến như là một lời hứa âm thầm – rằng chúng tôi sẽ không quên, sẽ sống xứng đáng, sẽ tiếp tục hành trình mà các anh, các chị đã khởi đầu bằng máu và nước mắt.

Nơi đây, thời gian dường như ngưng đọng. Sự ồn ào của thế giới hiện đại bị để lại phía sau cánh cổng nghĩa trang. Ở đây, chỉ có tiếng gió biển thổi qua rừng dương, tiếng lá cây xào xạc như lời thì thầm của những linh hồn bất tử. Ở đây, tôi cảm thấy sự gần gũi với lịch sử hơn bao giờ hết – không phải qua sách vở, mà qua chính từng bước chân, từng nhịp tim, từng giọt nước mắt lặng lẽ.

Tôi xúc động đặc biệt khi được trò chuyện với một nữ cựu tù chính trị năm xưa, nay đã ngoài 80 tuổi nhưng vẫn giữ nét cương nghị của một thời không khuất phục. Cô kể lại những ngày tháng bị biệt giam trong phòng tối, chỉ có tiếng rít của roi điện và tiếng gió biển rít qua song sắt làm bạn. Cô kể, bằng giọng đều đều, không một lời oán trách, rằng những người con gái tuổi đôi mươi năm ấy đã cắn răng chịu đựng mọi cực hình chỉ để giữ lại một điều: lòng tin. “Chúng tôi không sợ chết, chỉ sợ Tổ quốc không độc lập” cô nói, mắt nhìn xa xăm về phía Nghĩa trang Hàng Dương.

Tôi lặng đi. Trong đôi mắt già nua ấy không chỉ là nỗi đau, mà là ánh sáng của tự do. Sự kiên cường của những người phụ nữ như cô không chỉ là biểu tượng, mà là minh chứng sống cho sức mạnh tinh thần Việt Nam. Tôi nghĩ, nếu ai đó hỏi đâu là sức mạnh mềm lớn nhất của dân tộc ta, thì chính là những con người như cô – những người đã biến đau thương thành khí phách, và biến tù ngục thành biểu tượng bất khuất.

Nghe cô nói, tôi nghĩ rằng thế hệ hôm nay có một trách nhiệm thiêng liêng: ghi nhớ và tri ân. Tri ân không chỉ là những bông hoa, nén hương vào mỗi dịp 27/7, mà còn là sự nỗ lực không ngừng trong hiện tại – xây dựng một đất nước giàu mạnh, một xã hội công bằng, một tương lai đáng sống cho mọi người dân.

Tôi tin rằng, chính từ những nơi như Côn Đảo – nơi thử thách con người đến tận cùng – đã sinh ra những giá trị vĩnh cửu. Ở đây, tôi không chỉ thấy cái chết, mà thấy sự sống vĩnh hằng của lòng yêu nước. Tôi không chỉ thấy ngục tù, mà thấy niềm tin mãnh liệt vào một ngày mai.

]]>
Những người anh hùng bảo vệ Tổ quốc và hạnh phúc nhân dân https://tapchisacdep.com/nhung-nguoi-anh-hung-bao-ve-to-quoc-va-hanh-phuc-nhan-dan/ Wed, 06 Aug 2025 15:43:42 +0000 https://tapchisacdep.com/nhung-nguoi-anh-hung-bao-ve-to-quoc-va-hanh-phuc-nhan-dan/

Trong suốt chiều lịch sử dân tộc Việt Nam, hàng triệu người con ưu tú đã tự nguyện xung phong lên đường chiến đấu, thể hiện lòng dũng cảm và tinh thần hy sinh quên mình vì nghiệp lớn bảo vệ Tổ quốc. Không ít thanh niên ở độ tuổi十八, đôi mươi đã lựa chọn gác lại những ước mơ, hoài bão của tuổi trẻ, từ bỏ những trang sách, giảng đường, cũng như tình yêu thương của gia đình và người thân, để thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng này.

Những người trẻ này đã trở thành biểu tượng của lòng yêu nước và sự tận tâm vì cộng đồng. Bằng việc lên đường thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, họ đã thể hiện tinh thần trách nhiệm và ý thức công dân cao. Dù ở bất kỳ thời điểm nào, họ vẫn sẵn sàng đối mặt với khó khăn, nguy hiểm để mang lại sự bình yên và hạnh phúc cho nhân dân. Chính nhờ tinh thần đó, họ đã trở thành những người anh hùng trong lòng nhân dân.

Ngày nay, những câu chuyện về lòng dũng cảm và hy sinh của họ vẫn được kể lại và lưu truyền như những tấm gương sáng về lòng yêu nước và sự tận tâm vì cộng đồng. Nhân dân Việt Nam luôn nhớ đến và tôn vinh những người con ưu tú này, như một cách thể hiện lòng biết ơn và trân trọng những hy sinh và đóng góp của họ cho Tổ quốc.

Những giá trị và truyền thống tốt đẹp này sẽ tiếp tục được phát huy, truyền cảm hứng cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau, khuyến khích họ sống có lý tưởng, có trách nhiệm với gia đình, cộng đồng và đất nước, phấn đấu trở thành những công dân tích cực, góp phần xây dựng và phát triển đất nước.

]]>